loading...
Trong thập niên vừa qua, chúng ta đã chứng kiến tiếng nói của các trường đại học Việt Nam vang lên trên mọi diễn đàn học thuật, đòi hỏi cải thiện mức độ tự chủ.
Sự đòi hỏi này là chính đáng, vì quyền tự chủ có thể xem là điều kiện tiên quyết cho sự năng động và thành công của nhà trường, nhất là trong bối cảnh xã hội có nhiều thay đổi buộc nhà trường phải biến đổi rất nhanh để kịp thời thích ứng. Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh quyền tự chủ, chúng ta lại rất ít đề cập đến trách nhiệm giải trình của nhà trường. Điều này quả là thiếu sót, vì tự chủ không đi kèm trách nhiệm giải trình chẳng khác nào cỗ xe có chân ga mà không có chân phanh. Bài này nhằm thảo luận về vấn đề trách nhiệm giải trình của trường ĐH: Trường ĐH cần phải giải trình trách nhiệm với ai, và về điều gì? Giải trình để làm gì và bằng cách nào xác định được điểm cân bằng giữa tự chủ và trách nhiệm giải trình? Những điều này có liên đới như thế nào với cơ cấu thẩm quyền và trách nhiệm trong nhà trường, đặc biệt là trường ngoài công lập?
Trách nhiệm giải trình là gì?
Trách nhiệm giải trình (accountability) là một khái niệm trong đạo đức học và khoa học quản trị, thường được dùng với cùng ý nghĩa như những thuật ngữ trách nhiệm (responsibility), khả năng biện minh (answerability), nghĩa vụ pháp lý (liability), là những thuật ngữ liên quan tới sự mong đợi về khả năng chịu trách nhiệm. Trách nhiệm giải trình là sự thừa nhận về trách nhiệm đối với mọi hành động, mọi sản phẩm, mọi quyết định hay chính sách mà chúng ta đưa ra trong việc lãnh đạo, quản lý, và thực hiện công việc. Trách nhiệm giải trình gắn với nghĩa vụ báo cáo, giải thích, biện minh cho mọi kết quả của những việc chúng ta làm. Khả năng giải trình trách nhiệm được hiểu như năng lực thực hiện nghĩa vụ thông tin đầy đủ, năng lực biện minh cho hành động của mình trong quá khứ hoặc tương lai, và chịu sự trừng phạt nếu như hành động ấy vi phạm các quy tắc đạo đức và pháp lý[1].
Đối với nhiều người trong giới giáo dục đại học, “trách nhiệm giải trình” thường được hiểu thành ra “tự chịu trách nhiệm” (self-responsibility). Cách hiểu này không đúng và không giúp ích gì trong việc tạo ra một đối trọng cân bằng với quyền tự chủ. Trách nhiệm giải trình cũng thường bị hiểu sai thành ra trách nhiệm xã hội. Trách nhiệm đối với xã hội là một nội dung trọng yếu trong số những gì nhà trường phải giải trình trước các bên liên quan và trước công chúng, nhưng nó không đồng nghĩa với trách nhiệm giải trình. Đó là những từ ngữ cần được hiểu đúng trước khi có thể thảo luận.
Trường ĐH phải giải trình trách nhiệm với ai, và về điều gì?
Trách nhiệm giải trình là nghĩa vụ tất yếu của tất cả mọi cá nhân và tổ chức với tư cách là những thành viên có liên đới với nhau. Trong phần này, khi nói đến trách nhiệm giải trình của trường đại học, chúng ta đề cập đến trường ĐH như một tổng thể bao gồm sứ mạng và các giá trị cốt lõi, cùng với những người lãnh đạo và điều hành nó, cũng như mọi thành viên đã làm nên nó: giảng viên, nhân viên và sinh viên.
Ở Việt Nam, “trách nhiệm giải trình” là một khái niệm vẫn còn khá xa lạ. Khi nói tới trách nhiệm giải trình, người ta chủ yếu hiểu là trách nhiệm báo cáo với cơ quan chủ quản và với các tổ chức nhà nước có chức năng quản lý trường ĐH, chẳng hạn như Bộ GD-ĐT, chính quyền địa phương, cơ quan thuế, v.v.. Với tư cách là một tổ chức nhà nước (đối với ĐH công) hoặc một tổ chức xã hội (đối với ĐH tư), việc báo cáo với các tổ chức quản lý trên đây trong bối cảnh Việt Nam là một trách nhiệm mặc định.
Tuy nhiên, đó chỉ là một bộ phận của các bên liên quan mà nhà trường cần phải giải trình trách nhiệm.
Câu trả lời cho câu hỏi “trường ĐH cần phải giải trình trách nhiệm với ai?” phụ thuộc vào vấn đề bản chất của trường ĐH và sứ mạng chủ yếu của nó là gì. Các trường ĐH công với tư cách là tổ chức nhà nước và hoạt động bằng nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước, có nghĩa vụ giải trình không chỉ trước các tổ chức quản lý mà nhà nước lập ra, mà cả trước công chúng, tức là với những người đã đóng thuế để nuôi nhà trường.
Trường ĐH công có nghĩa vụ chứng minh họ đã sử dụng tiền thuế của người dân một cách hiệu quả và tạo ra được những kết quả xứng đáng cho sự phát triển của xã hội và nâng cao đời sống của người dân. Những kết quả đó có thể là những khám phá, những phát minh mới trong nghiên cứu khoa học đem lại kiến thức mới, thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của con người hay ứng dụng vào thực tiễn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống; có thể là những ý kiến phản biện chính sách nhằm cải thiện chất lượng phục vụ của chính phủ; có thể là một lực lượng lao động trẻ được đào tạo tốt phục vụ cho nền kinh tế. Các trường ĐH tư, nhất là những trường vì lợi nhuận, phải thực hiện trách nhiệm giải trình trước hết là với sinh viên và cha mẹ họ, những người đã trả tiền học và có quyền đòi hỏi một chất lượng dịch vụ tương xứng. Họ có quyền mong đợi rằng người đi học phải khác với người không được đi học, nhờ vào quá trình đào tạo, huấn luyện ở nhà trường.
Tuy nhiên, ở đây có một sự khác biệt cơ bản giữa hàng hóa giáo dục với những hàng hóa khác. Không như những vật phẩm tiêu dùng, kiến thức và kỹ năng không phải là thứ có thể cứ bỏ tiền là mua được. Sách có thể mua, nhưng tri thức thì phải học mới biết, kỹ năng phải rèn luyện, phải trải nghiệm mới có. Không ai có thể học thay cho sinh viên, trải nghiệm thay cho họ. Nhà trường không thể bán kiến thức cũng không thể bán bằng cấp, mà chỉ có thể mang lại những điều kiện cần giúp cho người học thụ đắc kiến thức và kỹ năng.
Vì lẽ đó, một “bên liên quan” có ý nghĩa tối quan trọng mà nhà trường cần phải thực hiện trách nhiệm giải trình, là các tổ chức kiểm định chất lượng. Các cơ quan kiểm định chất lượng là những tổ chức chuyên môn có chức năng đánh giá quá trình và chất lượng hoạt động của nhà trường dựa trên những tiêu chí đảm bảo cho việc thực hiện những sứ mạng mà nhà trường đã nêu ra.
Tuy nhiên, các tiêu chuẩn kiểm định, mặc dù rất quan trọng và cần thiết, vẫn không thể phản ánh hoàn toàn đầy đủ những sứ mạng mà trường ĐH phải hoàn thành. Người ta kỳ vọng rằng trường ĐH không chỉ là nơi kiến tạo tri thức mới và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, mà còn là nơi lưu giữ và bảo toàn những giá trị được truyền tải qua nhiều thế hệ. Nói cách khác, nó không chỉ có trách nhiệm với hiện tại mà còn có trách nhiệm với cả quá khứ và tương lai. Chính bởi sứ mạng đó mà trường ĐH trở thành cột trụ tinh thần của xã hội và là hiện thân của niềm hy vọng đối với công chúng. Sứ mạng đó đòi hỏi nhà trường không được nhân nhượng hay thỏa hiệp với những gì có thể phá hủy các giá trị mà nhà trường ấp ủ, giữ gìn, nhất là khi những giá trị ấy mâu thuẫn với những đòi hỏi nhất thời của công chúng hay của các nhóm lợi ích. Chính vì có ý thức về những điều này, mà cộng đồng đại học đòi hỏi một sự độc lập nhất định với nhà nước và với thị trường, nhằm bảo vệ cho những giá trị cốt lõi đã làm nên ý nghĩa của trường ĐH trong chiều dài lịch sử hàng ngàn năm của nó. Không có những giá trị ấy, trường ĐH chỉ còn là một doanh nghiệp cung ứng dịch vụ đào tạo đơn thuần.
Trường ĐH thực hiện trách nhiệm giải trình để làm gì và như thế nào?
Mục đích tối hậu của việc thực hiện trách nhiệm giải trình là bảo đảm rằng nhà trường đã và đang duy trì những nguyên tắc đạo đức cơ bản trong việc thực thi công việc của mình. Đó là những nguyên tắc được đặt ra nhằm bảo vệ lợi ích công, bảo vệ nguồn lực công không để cho nó bị sử dụng sai mục đích. Đó là những nguyên tắc giúp cho nhà trường không trở thành dối trá bởi những gì nói ra không giống với những gì mà thực sự làm, bởi những gì nhà trường hứa hẹn với người học và xã hội không giống với những gì mà nhà trường thực sự mang lại.
Nhà nước với tư cách là đại diện người dân và có bổn phận bảo vệ lợi ích công, có trách nhiệm thúc đẩy trách nhiệm giải trình của các trường. Tuy vậy, có một ranh giới rất rõ giữa việc đòi hỏi trách nhiệm giải trình của các trường, và việc can thiệp vào công việc của nhà trường. Mọi sự can thiệp vào nhà trường, dù dưới hình thức trực tiếp hay gián tiếp, đều đe dọa quá trình sáng tạo và theo đuổi kiến thức, xói mòn sự ưu tú, khả năng đáp ứng và ý nghĩa của nhà trường đối với xã hội.
Bởi lẽ đó, nhà nước cần thiết lập một khuôn khổ chính sách đòi hỏi các trường phải minh bạch về trách nhiệm giải trình. Chủ trương “Ba Công khai” của Bộ GDĐT chính là một nỗ lực theo hướng đó và cần được củng cố. Cùng với việc công khai về đội ngũ, về nguồn lực, về mức học phí, báo cáo thường niên và kết quả kiểm định cũng phải được công khai trên trang web của các trường, công lập cũng như tư thục. Vai trò tốt nhất của nhà nước không phải là can thiệp, kiểm soát hay cấp phép; mà là tạo ra một hành lang pháp lý đòi hỏi các trường phải thực hiện trách nhiệm giải trình công khai và thúc đẩy hoạt động của các tổ chức kiểm định độc lập.
Trách nhiệm giải trình và vấn đề cơ cấu thẩm quyền trong trường ĐH ngoài công lập
Trường ĐH là một thực thể ngày càng phức tạp với nhiều chức năng đan xen và gắn với nhiều bên liên quan khác nhau, do vậy trách nhiệm giải trình của nhà trường cũng hết sức đa dạng. Câu hỏi được đặt ra là cơ cấu thẩm quyền nào có thể bảo đảm tốt nhất trách nhiệm giải trình của nhà trường đối với xã hội.
Đối với trường công, việc xây dựng Hội Đồng Trường như một cơ quan quyền lực cao nhất có chức năng lãnh đạo nhà trường và giám sát việc thực thi nhiệm vụ của Hiệu Trưởng là điều rất cần, vì nó bảo đảm cho quyền tự chủ của nhà trường và cùng với quyền tự chủ là trách nhiệm giải trình của bộ máy điều hành. Điều đáng tiếc là xu hướng này đang tiến triển rất chậm ở Việt Nam[2].
Đối với trường NCL, khó khăn không nằm ở chỗ thiết lập Hội Đồng Trường (HĐT) và xác định thẩm quyền của HĐT, mà là ở chỗ khác. Những bất ổn xảy ra hàng loạt ở các trường NCL vừa qua, trong đó có những trường trước đây từng được xem là vững mạnh như Trường ĐH Hoa Sen, chủ yếu là do đấu tranh quyền lực giữa HĐQT (đại diện cho quyền sở hữu) và bộ máy quản lý (thực thi trách nhiệm điều hành). Như chúng tôi đã phân tích trong một bài trước đây[3], khung pháp lý hiện tại đã tạo ra một tình thế trong đó quyền lực chủ yếu nằm trong tay bộ máy điều hành, khiến những người chủ sở hữu lo sợ và để tránh rủi ro, họ đã trực tiếp nắm luôn quyền điều hành, tạo ra một quyền lực tuyệt đối và không bị kiểm soát. Trong trường hợp thuê Hiệu Trưởng, những người chủ sở hữu đã can thiệp quá sâu vào công việc điều hành khiến Hiệu Trưởng không thể thực sự lãnh đạo các hoạt động chuyên môn trong trường. Chúng tôi đã nêu ra một cơ chế phân lập giữa quyền “lập pháp” của HĐQT và quyền “hành pháp” của Hiệu Trưởng như một thiết chế giám sát việc thực thi quyền lực trong nhà trường.
Tuy nhiên, có hai câu hỏi được đặt ra ở đây, liên quan đến trách nhiệm giải trình. Một, trong trường hợp các trường vì lợi nhuận, ngay cả khi đã có cơ chế phân lập giữa sở hữu và điều hành, thì cái gì sẽ đảm bảo cho trách nhiệm giải trình của nhà trường đối với xã hội. Nói cách khác, nếu bộ phận điều hành chỉ thực thi ý muốn của những người chủ sở hữu và vận hành nhà trường như một cỗ máy tìm kiếm lợi nhuận đơn thuần, thì liệu lợi ích công có bị ảnh hưởng? Hai, trong trường hợp các trường phi lợi nhuận thực sự, tức là quyền sở hữu thuộc về cộng đồng, điều gì sẽ đảm bảo cho trách nhiệm giải trình của các trường, hay nói cách khác, cơ chế nào sẽ giúp các trường phi lợi nhuận thực hiện những cam kết của nó mà không bị bộ phận điều hành lạm dụng quyền lực để vụ lợi?
Đối với câu hỏi thứ nhất, chúng tôi cho rằng trường vì lợi nhuận về bản chất là một doanh nghiệp, do đó cần được đối xử giống như một doanh nghiệp, tức là tôn trọng quyền quyết định của người sở hữu. Nhà đầu tư có tầm nhìn dài hạn sẽ tìm được điểm cân bằng giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, sẽ thuê những người điều hành thực sự am hiểu về GDĐH và biết tạo ra sản phẩm có chất lượng, vì chất lượng chính là lợi thế cạnh tranh và lợi ích sống còn của họ. Nhà đầu tư ngắn hạn sẽ muốn thu càng nhiều càng tốt, chi càng ít càng hay, chia lợi càng nhanh càng tốt. Để làm được điều này họ sẽ thuê những người điều hành sẵn sàng dẫm lên các tiêu chuẩn học thuật và đạo đức. Chiến lược đó không thể tạo ra chất lượng và sớm muộn sẽ bị thị trường đào thải. Vấn đề là khi bị đào thải thì họ đã kịp tàn phá xã hội với việc lừa dối người học, bán bằng và làm loạn chuẩn mực. Bởi vậy, cần phải có vai trò của kiểm định độc lập để hạn chế xu hướng này.
Đối với câu hỏi thứ hai, chúng tôi cho rằng trường phi lợi nhuận thuộc sở hữu cộng đồng và cần có những người thực sự bảo vệ cho lợi ích cộng đồng ở trong thành phần của HĐQT. Tiêu chuẩn lựa chọn hiệu trưởng và quá trình lựa chọn hiệu trưởng phải được nêu công khai.
Trong cả hai trường hợp, nhà nước phải có vai trò thúc đẩy một cơ cấu thẩm quyền thích hợp với GDĐH nhằm tránh những hoạt động không lành mạnh của các trường NCL, kể cả vì lợi nhuận lẫn phi lợi nhuận. Vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận bản thân nó không làm cho kết quả hoạt động của nhà trường tốt hơn hay xấu hơn, mà vấn đề nằm trong sứ mạng mà nhà trường đặt ra, cơ cấu thẩm quyền của các trường (mức độ phân lập, phối hợp và giám sát giữa HĐQT và Hiệu trưởng) giúp nó thực hiện được sứ mạng đó, cũng như cơ chế giải trình trách nhiệm trong nội bộ nhà trường và giữa nhà trường với các bên liên quan. Việc xác lập một thiết chế lành mạnh về cơ cấu thẩm quyền nhằm đảm bảo trách nhiệm giải trình của nhà trường đối với xã hội là điều tối quan trọng để nhà trường có thể đi trên con đường đúng đắn mà nó cần phải đi.
TS. Phạm Thị Ly
Nguồn: www.lypham.net
(Bản ngắn hơn đăng trên Thời báo Kinh tế Saigon số 35-2014 ra ngày 28.08.2014)
[1] Phạm Thị Ly (2012).Tự chủ đại học và trách nhiệm giải trình: quan hệ giữa nhà nước, nhà trường và xã hội. Tạp chí Phát triển Khoa học – Công nghệ, Tập 15, Q1-2012.
[2] Xem bài trả lời phỏng vấn GS. Lâm Quang Thiệp: “Muốn tự chủ ĐH phải có đường lối quản trị đúng”. Tuổi trẻ Cuối tuần 17.08.2014
[3] Phạm Thị Ly. “Trường phi lợi nhuận ở Việt nam: có khả thi?” Tuổi trẻ số ra ngày 13.08.2014.
Trách nhiệm giải trình của trường đại học và vấn đề cơ cấu thẩm quyền ở trường ngoài công lập
Quan trắc môi trường, quan trắc môi trường định kỳ, dịch vụ quan trắc môi trường, phân tích mẫu môi trường, phòng thí nghiệm môi trường, công ty môi trường uy tín, dịch vụ môi trường Hà Nội, lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, ĐTM, tư vấn môi trường, hồ sơ môi trường doanh nghiệp, xin giấy phép môi trường, lập báo cáo ĐTM, lập kế hoạch bảo vệ môi trường, đăng ký sổ chủ nguồn thải, báo cáo công tác bảo vệ môi trường, hồ sơ cấp phép xả thải, giấy phép môi trường, hồ sơ môi trường cho nhà máy sản xuất, tư vấn thủ tục môi trường, phân tích nước thải, khí thải, bụi, lấy mẫu quan trắc nước thải, lấy mẫu khí thải ống khói, đo đạc môi trường lao động, đo tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, đo vi khí hậu nơi làm việc, dịch vụ môi trường cho nhà máy, hồ sơ môi trường cho cơ sở sản xuất, báo cáo môi trường cho khu công nghiệp, hồ sơ môi trường cho trạm xăng, nhà hàng, khách sạn, quan trắc môi trường Hà Nội, tư vấn môi trường Hà Nội, công ty môi trường tại Hà Nội, lập hồ sơ môi trường Bắc Ninh, lập hồ sơ môi trường Hưng Yên, lập hồ sơ môi trường Hải Phòng, dịch vụ môi trường Hưng Yên,dịch vụ môi trường Hà Nội,dịch vụ môi trường Bắc Ninh,dịch vụ môi trường Phú Thọ,quan trắc môi trường định kỳ, dịch vụ quan trắc môi trường, quan trắc nước thải, khí thải, không khí, phân tích mẫu nước, mẫu đất, khí thải, đo môi trường lao động, tiếng ồn, vi khí hậu, lập hồ sơ môi trường doanh nghiệp, tư vấn lập báo cáo ĐTM, kế hoạch bảo vệ môi trường, đề án bảo vệ môi trường đơn giản, báo cáo công tác bảo vệ môi trường, xin giấy phép môi trường, giấy phép xả thải, sổ đăng ký chủ nguồn thải, giấy phép khai thác nước ngầm, cấp phép xử lý chất thải nguy hại, tư vấn môi trường trọn gói, tư vấn hồ sơ môi trường nhà máy, dịch vụ môi trường cho khu công nghiệp, tư vấn pháp lý môi trườn, đo tiếng ồn nơi làm việc, đo độ rung, ánh sáng, bụi, khí độc, đo vi khí hậu, hơi khí độc, nhiệt độ, đánh giá điều kiện lao động, báo cáo ĐTM là gì, thủ tục xin giấy phép môi trường, chi phí quan trắc môi trường bao nhiêu, quy trình quan trắc môi trường định kỳ, hồ sơ môi trường doanh nghiệp gồm những gì, thời gian thực hiện hồ sơ môi trường, quy định mới về bảo vệ môi trường, mẫu báo cáo quan trắc định kỳ, quan trắc môi trường , quan trắc môi trường định kỳ , phân tích mẫu nước , phân tích mẫu khí thải , đo môi trường lao động , đo tiếng ồn , đo bụi , đo vi khí hậu , lấy mẫu nước thải , đo ánh sáng , quan trắc khí thải ống khói , đo hơi khí độc , đo vi sinh trong không khí, báo cáo ĐTM , kế hoạch bảo vệ môi trường , đề án bảo vệ môi trường , hồ sơ môi trường doanh nghiệp , hồ sơ môi trường nhà máy , báo cáo công tác bảo vệ môi trường , báo cáo quản lý chất thải , hồ sơ xả thải, xin giấy phép môi trường , giấy phép xả thải , đăng ký sổ chủ nguồn thải , giấy phép khai thác nước ngầm , giấy phép xử lý chất thải nguy hại , hồ sơ cấp phép môi trường,
_________________
0 comments Blogger 0 Facebook
Post a Comment