loading...
- Ngày 3-9, Bộ Lao động – thương binh và xã hội công bố “Bản tin thị trường lao động VN – số 3 năm 2014”, trong đó nội dung tỉ lệ thất nghiệp cả nước là 1,84%.
Tất nhiên hệ lụy còn nhiều hơn nữa nếu muốn tiếp tục kể thêm ra đây. Tôi tin chắc một điều là những người làm ra con số tỉ lệ thất nghiệp này cũng không tin là nó đúng.
Bản thân ông phó viện trưởng Viện Khoa học lao động và xã hội VN Nguyễn Bá Ngọc thừa nhận rằng: “Chúng ta điều tra theo cách khi người lao động có một giờ làm việc trước thời điểm điều tra cũng được coi là có việc làm. Chính điều này dẫn tới việc phản ánh không chính xác về thực trạng thị trường lao động hiện nay”.
Ở các nước, họ quan niệm rằng những ai trong độ tuổi lao động không tạo ra thu nhập, không có thu nhập ổn định từ sức lao động của mình, những ai phải sống dựa vào trợ cấp thất nghiệp, sống dựa vào phúc lợi xã hội thì bị coi là thất nghiệp, kể cả chuyện đang có việc làm sau đó mất việc, một người được đào tạo ở bậc cao phải làm một công việc tạm bợ cũng coi là thất nghiệp.
Trong khi đó bộ chủ quản về lao động ở nước ta cho rằng nền kinh tế VN là nền kinh tế có độ mở lớn và mềm dẻo, cho nên bất kỳ ai kiếm được một công việc đủ trang trải cho nhu cầu tối thiểu dù bấp bênh đến đâu cũng không được xếp vào nhóm thất nghiệp.
Điều đó có nghĩa là một kỹ sư bị ra khỏi nhà máy do doanh nghiệp phá sản quay ra chạy xe ôm, một viên chức ngân hàng cao cấp phải chạy bàn độ nhật trong quán… cũng không coi là thất nghiệp nếu trước thời điểm được hỏi anh ta có sở hữu được một đơn vị thời gian dù chỉ là một giờ để làm việc kiếm sống.
Chính vì quan niệm như thế mà trong cơn khủng hoảng toàn cầu tàn phá các nước phát triển thì VN lại có thành tích “thất nghiệp cực thấp”, vì những người thất nghiệp ở đô thị đã dạt về nông thôn để thực hiện sự chuyển dịch nghề nghiệp trong trạng thái cơ cấu kinh tế mới, dù trên thực tế chẳng biết họ về nông thôn có làm việc đồng áng không hay chờ cơ hội để lại ra đi.
Bộ Lao động – thương binh và xã hội vừa công bố một chỉ số nức lòng dân là tỉ lệ thất nghiệp quý 2 ở VN hiện nay chỉ có 1,84%. Nói là nức lòng bởi tỉ lệ này thấp hơn rất nhiều lần so với châu Âu, nơi vốn được coi là có nền kinh tế khá ổn định, và thấp hơn Mỹ những ba lần trong thời điểm hiện tại là 6,2%.
Những người làm nghiên cứu lâu năm không ngạc nhiên về những con số thống kê như thế vì đã quen rồi, mà ngạc nhiên là tại sao cung cách làm việc như thế sau hàng chục năm vẫn còn được phát huy.
Nhiều hệ lụy
Ai đó sẽ nói thống kê cho vui thôi mà, có chết ai đâu, hoặc có sao đâu, miễn là làm vui lòng ai đó. Nhưng sự thật không phải như thế.
Tỉ lệ thất nghiệp phản ánh sức khỏe của một nền kinh tế. Đó là cơ sở tin cậy nhất và có thể là duy nhất để quốc hội, chính phủ, bộ máy lãnh đạo cao cấp nhất hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô và bộ ngành, các tỉnh thành hoạch định chính sách cụ thể cho ngành mình và địa phương mình.
Tỉ lệ 1,84% là một tỉ lệ vô cùng lý tưởng, phản ánh một hệ số an toàn gần như tuyệt đối cho một quốc gia. Nhưng nếu đây là con số thống kê sai lệch thì hậu quả sẽ khôn lường. Một vài ví dụ chắc chắn sẽ xảy ra:
- Các nhà quản lý giáo dục, các trường đại học, cao đẳng, trường dạy nghề tin rằng mình đang đào tạo đúng, đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động, không cần phải cải tiến nữa. Những ta thán ngoài xã hội là vớ vẩn, phi khoa học.
Trong khi thực tế, nếu một khoa đào tạo sinh viên ra trường mà có được 70% sinh viên kiếm được việc làm thì kể như thành công ghê lắm.
- Các cơ quan an ninh, bảo vệ xã hội không còn lo lắng gì nhiều nữa, bởi tỉ lệ thất nghiệp giảm sâu đồng nghĩa với việc các tệ nạn xã hội sẽ giảm, như thế các giải pháp phòng ngừa là không cần thiết, bởi yếu tố “nhàn cư vi bất thiện” gần như bị loại bỏ.
- Không cần đầu tư thêm cho chính sách xóa đói giảm nghèo nữa, bởi không có lý do gì phải bỏ thêm tiền cho người nghèo khi mà ai cũng có công ăn việc làm.
- Những nhà đầu tư nước ngoài đang định dịch chuyển từ Trung Quốc, Nam Á sang VN vì nghe nói lao động VN giá rẻ, dôi dư cao, nay ngưng lại vì ở VN trên 98% lao động có việc làm thì việc tuyển lao động mới là không dễ.
- Các tổ chức quốc tế, các quốc gia, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á sẽ ngưng ngay các khoản cho vay ưu đãi, các dự án ODA, các gói hỗ trợ nhân đạo vì VN hiện nay có nền kinh tế bền vững hơn cả Mỹ và châu Âu, và Chính phủ không có lý do gì để trì hoãn các khoản nợ khổng lồ nữa…
Thống kê phi khoa học
Tất nhiên hệ lụy còn nhiều hơn nữa nếu muốn tiếp tục kể thêm ra đây. Tôi tin chắc một điều là những người làm ra con số tỉ lệ thất nghiệp này cũng không tin là nó đúng.
Bản thân ông phó viện trưởng Viện Khoa học lao động và xã hội VN Nguyễn Bá Ngọc thừa nhận rằng: “Chúng ta điều tra theo cách khi người lao động có một giờ làm việc trước thời điểm điều tra cũng được coi là có việc làm. Chính điều này dẫn tới việc phản ánh không chính xác về thực trạng thị trường lao động hiện nay”.
Ở các nước, họ quan niệm rằng những ai trong độ tuổi lao động không tạo ra thu nhập, không có thu nhập ổn định từ sức lao động của mình, những ai phải sống dựa vào trợ cấp thất nghiệp, sống dựa vào phúc lợi xã hội thì bị coi là thất nghiệp, kể cả chuyện đang có việc làm sau đó mất việc, một người được đào tạo ở bậc cao phải làm một công việc tạm bợ cũng coi là thất nghiệp.
Trong khi đó bộ chủ quản về lao động ở nước ta cho rằng nền kinh tế VN là nền kinh tế có độ mở lớn và mềm dẻo, cho nên bất kỳ ai kiếm được một công việc đủ trang trải cho nhu cầu tối thiểu dù bấp bênh đến đâu cũng không được xếp vào nhóm thất nghiệp.
Điều đó có nghĩa là một kỹ sư bị ra khỏi nhà máy do doanh nghiệp phá sản quay ra chạy xe ôm, một viên chức ngân hàng cao cấp phải chạy bàn độ nhật trong quán… cũng không coi là thất nghiệp nếu trước thời điểm được hỏi anh ta có sở hữu được một đơn vị thời gian dù chỉ là một giờ để làm việc kiếm sống.
Chính vì quan niệm như thế mà trong cơn khủng hoảng toàn cầu tàn phá các nước phát triển thì VN lại có thành tích “thất nghiệp cực thấp”, vì những người thất nghiệp ở đô thị đã dạt về nông thôn để thực hiện sự chuyển dịch nghề nghiệp trong trạng thái cơ cấu kinh tế mới, dù trên thực tế chẳng biết họ về nông thôn có làm việc đồng áng không hay chờ cơ hội để lại ra đi.
Bệnh thành tích ở con số thống kê
Hầu hết đều tán đồng với nhận xét của TS Nguyễn Minh Hòa và cho rằng ở đây thấy rõ căn bệnh thành tích, tô hồng thực tế ở các con số thống kê.
Không tin nổi
Còn nhớ năm ngoái có đưa ra tỉ lệ công chức làm việc không hiệu quả là 1-2%, công luận đã phản đối mạnh mẽ. Bây giờ lại đến lượt Bộ Lao động – thương binh và xã hội đưa ra con số tỉ lệ thất nghiệp 1,84%. Tôi làm về lý thuyết xấp xỉ, khi xem con số 1,84% thấy buồn cười vì không tin nổi. Có lẽ chẳng cần nói gì thêm vì TS Nguyễn Minh Hòa đã nói đầy đủ ở bài viết của mình.
Con số giật mình
Bài viết của TS Hòa rất hay. Khi tôi nghe tin tỉ lệ thất nghiệp hiện nay chỉ 1,84% thì không khỏi giật mình. Tôi không hiểu những người làm thống kê để đưa ra kết quả đó từ đâu ra. Thực tế hiện nay thất nghiệp rất nhiều, đặc biệt là trình độ đại học, cao đẳng. Nhiều sinh viên tốt nghiệp bằng loại giỏi, tốt nghiệp hai bằng nhưng khi ra trường chẳng có việc làm. Nhu cầu lao động thì ít nhưng các trường đại học lại đào tạo tràn lan.
Thống kê “ảo”
Người ta cho rằng sinh viên tốt nghiệp đại học tìm được công việc đứng bán hàng, chạy chợ, rao bán mỹ phẩm, thậm chí có trường hợp thạc sĩ, tiến sĩ tìm được công việc hợp đồng tạm bợ đều là có việc làm “ổn định”. Bộ nào ngành nào mà chẳng cần thành tích? Nhưng nếu các con số thống kê của cơ quan nhà nước toàn con số ảo như vậy làm sao đánh giá được tình hình kinh tế? Không lẽ các vị lại thích cái ảo của nền kinh tế hay sao?
Bệnh thành tích
Lại thêm một kiểu bệnh thành tích. Nếu đúng Việt Nam có tỉ lệ thất nghiệp dưới 2% như báo cáo thì có lẽ không có sinh viên tốt nghiệp đại học đi bán vé số, đi học lại trung học để kiếm việc làm. Chắc các nước phát triển phải đến học cách làm tuyệt vời này của nước ta!
Tô hồng
Bài viết của TS Hòa thật sâu sắc. Đây là cách các nhà quản lý tô hồng bức tranh kinh tế – xã hội, đánh bóng thành tích quản lý của mình và ru ngủ dư luận, người dân.
Cần làm rõ cách tính
Tôi thấy sự mơ hồ về con số thống kê từ Bộ Lao động – thương binh và xã hội. Không thể chỉ lấy con số trên những người nộp thuế thu nhập cá nhân, có sổ bảo hiểm xã hội để tính tỉ lệ thất nghiệp, mà còn phải căn cứ trên những thông tin khác.
Ngoài ra, cần phải tính tỉ lệ thất nghiệp cổ điển (dạng thất nghiệp do tiền công thực tế trả cho người làm công việc đó cao hơn mức tiền công thực tế bình quân của thị trường lao động chung, khiến cho lượng cung về lao động đối với công việc này cao hơn lượng cầu) là bao nhiêu, tỉ lệ thất nghiệp tạm thời là bao nhiêu, tỉ lệ thất nghiệp ẩn (chưa có số liệu gom gộp đầy đủ) được theo dõi như thế nào?… Bởi vì hiện trạng người lao động mà thành phần là các sinh viên tốt nghiệp chưa tìm được đúng việc, đúng ngành, hay người lao động có việc không đúng ngành rất đông.
Bộ Lao động – thương binh và xã hội căn cứ vào đâu, có số liệu thu thập như thế nào để minh chứng cho con số báo cáo nói trên? Đây là điều cần phải làm rõ cho các nhà hoạch định nhân sự, đào tạo và tuyển dụng biết đường mà tin vào.
Hãy sửa đổi
Bài viết rất sát thực. Mong các vị lãnh đạo, các bộ ban ngành có trách nhiệm đọc và nghiên cứu những phân tích trên của TS Nguyễn Minh Hòa để có sửa đổi phù hợp.
Tỉ lệ thất nghiệp 1,84%: quá phi lý!
Quan trắc môi trường, quan trắc môi trường định kỳ, dịch vụ quan trắc môi trường, phân tích mẫu môi trường, phòng thí nghiệm môi trường, công ty môi trường uy tín, dịch vụ môi trường Hà Nội, lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, ĐTM, tư vấn môi trường, hồ sơ môi trường doanh nghiệp, xin giấy phép môi trường, lập báo cáo ĐTM, lập kế hoạch bảo vệ môi trường, đăng ký sổ chủ nguồn thải, báo cáo công tác bảo vệ môi trường, hồ sơ cấp phép xả thải, giấy phép môi trường, hồ sơ môi trường cho nhà máy sản xuất, tư vấn thủ tục môi trường, phân tích nước thải, khí thải, bụi, lấy mẫu quan trắc nước thải, lấy mẫu khí thải ống khói, đo đạc môi trường lao động, đo tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, đo vi khí hậu nơi làm việc, dịch vụ môi trường cho nhà máy, hồ sơ môi trường cho cơ sở sản xuất, báo cáo môi trường cho khu công nghiệp, hồ sơ môi trường cho trạm xăng, nhà hàng, khách sạn, quan trắc môi trường Hà Nội, tư vấn môi trường Hà Nội, công ty môi trường tại Hà Nội, lập hồ sơ môi trường Bắc Ninh, lập hồ sơ môi trường Hưng Yên, lập hồ sơ môi trường Hải Phòng, dịch vụ môi trường Hưng Yên,dịch vụ môi trường Hà Nội,dịch vụ môi trường Bắc Ninh,dịch vụ môi trường Phú Thọ,quan trắc môi trường định kỳ, dịch vụ quan trắc môi trường, quan trắc nước thải, khí thải, không khí, phân tích mẫu nước, mẫu đất, khí thải, đo môi trường lao động, tiếng ồn, vi khí hậu, lập hồ sơ môi trường doanh nghiệp, tư vấn lập báo cáo ĐTM, kế hoạch bảo vệ môi trường, đề án bảo vệ môi trường đơn giản, báo cáo công tác bảo vệ môi trường, xin giấy phép môi trường, giấy phép xả thải, sổ đăng ký chủ nguồn thải, giấy phép khai thác nước ngầm, cấp phép xử lý chất thải nguy hại, tư vấn môi trường trọn gói, tư vấn hồ sơ môi trường nhà máy, dịch vụ môi trường cho khu công nghiệp, tư vấn pháp lý môi trườn, đo tiếng ồn nơi làm việc, đo độ rung, ánh sáng, bụi, khí độc, đo vi khí hậu, hơi khí độc, nhiệt độ, đánh giá điều kiện lao động, báo cáo ĐTM là gì, thủ tục xin giấy phép môi trường, chi phí quan trắc môi trường bao nhiêu, quy trình quan trắc môi trường định kỳ, hồ sơ môi trường doanh nghiệp gồm những gì, thời gian thực hiện hồ sơ môi trường, quy định mới về bảo vệ môi trường, mẫu báo cáo quan trắc định kỳ, quan trắc môi trường , quan trắc môi trường định kỳ , phân tích mẫu nước , phân tích mẫu khí thải , đo môi trường lao động , đo tiếng ồn , đo bụi , đo vi khí hậu , lấy mẫu nước thải , đo ánh sáng , quan trắc khí thải ống khói , đo hơi khí độc , đo vi sinh trong không khí, báo cáo ĐTM , kế hoạch bảo vệ môi trường , đề án bảo vệ môi trường , hồ sơ môi trường doanh nghiệp , hồ sơ môi trường nhà máy , báo cáo công tác bảo vệ môi trường , báo cáo quản lý chất thải , hồ sơ xả thải, xin giấy phép môi trường , giấy phép xả thải , đăng ký sổ chủ nguồn thải , giấy phép khai thác nước ngầm , giấy phép xử lý chất thải nguy hại , hồ sơ cấp phép môi trường,
_________________
0 comments Blogger 0 Facebook
Post a Comment